Mô tả Tag

Tìm hiểu chung về Bạch Chỉ

Tên gọi và danh pháp

Tên Tiếng Việt: Bạch chỉ

Tên khác: Phong bạch chỉ, phong hương, bạch chỉ hàng châu, hương bạch chỉ.

Tên khoa học: Angelica dahurica Benth. et Hook (họ Hoa tán – Apiaceae).

Đặc điểm tự nhiên

Bạch chỉ là một loài thân cỏ lâu năm, cao từ 1 – 1,5 m. Rễ cọc mọc thẳng xuống đất và phình lên thành củ, đôi khi có phân nhánh. Thân cây có đường kính từ 2 – 3 cm, rỗng, bên ngoài có màu tím hồng, thân non có lông tơ bao phủ. Lá có kích thước lớn, bẹ lá phát triển ôm lấy thân. Phiến lá xẻ lông chim từ 2 – 3 lần tạo các thùy hình trứng có chiều dài 2 – 6 cm, rộng 1 – 3 cm, mép lá có răng cưa, có lông ở mặt trên lá tại vị trí các đường gân.

Cụm hoa dạng tán kép mọc ở ngọn hoặc nách lá. Cuống chung dài 4 – 8 cm, cuống tán dài 1 cm. Hoa mẫu 5, màu trắng, cánh hoa cong lên ở đỉnh, 5 nhị dài hơn cánh hoa. Quả bế đôi hình bầu dục dẹt hoặc hình cầu, dài khoảng 6 mm với 4 cánh mỏng. Cây có chứa tinh dầu ở rễ, thân và lá.

Ngoài bạch chỉ (hàng châu bạch chỉ, hương bạch chỉ), còn có Xuyên bạch chỉ (Angelica anomala) cũng là một loài thân cỏ lâu năm. Xuyên bạch chỉ sống lâu hơn bạch chỉ, chiều cao hơn bạch chỉ 2 – 3 cm nhưng đường kính thân lại nhỏ hơn, chỉ khoảng 1 cm, lá chia thùy với phần cuống dài khác với bạch chỉ. Tuy nhiên, theo Trung dược chí 1 (1993), loài này chưa bao giờ được dùng thay thế bạch chỉ.

Phân bố, thu hái, chế biến

Bạch chỉ đã được di thực thành công vào Việt Nam và lưu giống tại vùng núi cao. Cây cũng được trồng ở đồng bằng.

Tại Tam Đảo, bạch chỉ được trồng vào khoảng tháng 1, tháng 2 hàng năm, đến tháng 4, tháng 5 năm sau, cây bắt đầu ra hoa.

Vào mùa thu, khi lá chuyển vàng, tiến hành thu hái rễ (không lấy rễ củ ở cây ra hoa, kết quả).

Rễ và rễ con được cho vào dụng cụ bảo quản chứa vôi, đậy kín. Sau 1 tuần lấy mẫu đem phơi khô. Cũng có nơi người ta tiến hành phơi luôn. Phơi nắng hoặc sấy khô ở nhiệt độ 40 – 50oC.

Bộ phận sử dụng

Bộ phận dùng của bạch chỉ là rễ củ (Radix Angelicae dahuricae) phơi hay sấy khô. Rễ củ có dạng hình chùy, đường kính khoảng 3 cm, dài từ 10 – 20 cm. Mặt ngoài có màu nâu nhạt, có dấu vết của rễ con và nhiều đường nhăn dọc. Cắt ngang thấy có màu trắng đến trắng ngà, mùi thơm hắc, vị cay, hơi đắng.

Thành phần hóa học

Các hợp chất thuộc nhóm coumarin được phân lập từ rễ bạch chỉ bao gồm: Oxypeucedanin, imperatorin, isoimperatorin, phellopterin, byakangelicin, izobyakangelicol hay anhydrobyakangelicin, angelicol, xanthotoxin, neobyakangelicol, marmesin, nodakenetin, scopoletin.

Trong xuyên bạch chỉ, ngoài chất bergapten, umbelliferon còn có anomalin. Một chất nhựa màu vàng, vị đắng có tính chất kích thích được chiết xuất từ xuyên bạch chỉ, gọi là angelicotoxin. Ngoài ra còn có một số chất khác như byakangelicin C17H18O7, byakangelicola C17H16O6, acid angelic C4H7COOH và tinh dầu.

Nghiên cứu của Kim Hyun Soo và cộng sự (1990) đã xác định tinh dầu trong bạch chỉ chứa α-pinen, camphen, β-pinen, myrcen, α-phelandren, caren, α –terpinen, terpinolen, 4-vinylguaicol, isoclemen, β-clemen, caryophylen, và các chất sesquiterpen…

Công dụng

Theo y học cổ truyền

Theo Đông y, bạch chỉ có vị cay, tính ôn, vào 3 kinh phế, vị, đại tràng. Dược liệu có tác dụng giải biểu, khu phong, thắng thấp, hoạt huyết, tiêu mủ, sinh cơ, giảm đau. Do làm thần kinh hưng phấn, khí huyết lưu thông nên được dùng để điều trị nhức đầu, đau răng, các bệnh về đầu mặt, huyết trắng, và điều hòa kinh nguyệt.

Dược liệu còn được dùng giảm đau, hút mủ trong trường hợp sưng vú, ghẻ lở; giảm đau trong nhức đầu, cảm mạo, hoa mắt, đau răng; và cầm máu ở trường hợp chảy máu cam, đi tiêu ra máu.

Bạch chỉ thường được phối hợp với các dược liệu khác như sắn dây, địa liền, để làm viên bạch địa căn, có tác dụng hạ sốt giảm đau trong sốt xuất huyết, sởi, thủy đậu. Bạch chỉ cũng được kết hợp với xuyên khung để làm bột khung chỉ.

Theo y học hiện đại

  • Tác dụng kháng khuẩn: Các nghiên cứu đã chứng minh bạch chỉ có khả năng ức chế sự sinh trưởng của một số vi khuẩn như E. coli, trùng lỵ Sonner, trực khuẩn mủ xanh và vi khuẩn tả; và ức chế sự phát triển của phế cầu khuẩn, liên cầu khuẩn tán huyết, tụ cầu vàng, trực khuẩn subtilis, trực khuẩn lỵ, tràng cầu khuẩn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn thương hàn.
  • Tác dụng hạ sốt, giảm đau: Nghiên cứu trên thỏ cho thấy bạch chỉ có tác dụng giảm sốt rõ rệt.
  • Tác dụng kháng viêm: Nghiên cứu trên chuột cho thấy bạch chỉ có hiệu quả giảm phù.
  • Tác dụng giảm co thắt cơ trơn (ví dụ: bệnh suyễn): Dịch chiết coumarin toàn phần của bạch chỉ có tác dụng làm giảm co thắt tử cung và co thắt phế quản do histamine.
  • Tác dụng trên tim mạch: Có thể gây chậm nhịp tim, hạ huyết áp, ức chế co bóp tim.
  • Tác dụng lên thần kinh: Liều nhỏ có tác dụng kích thích, liều lớn có thể gây co giật, tê liệt.

Liều dùng & cách dùng

Có thể sắc hoặc uống bạch chỉ dưới dạng bột, viên, hoàn, ngày dùng từ 5 – 10 g chia làm nhiều lần, mỗi lần khoảng 1 – 2 g. Nếu dùng ngoài thì nghiền lượng vừa đủ thành bột sau đó đắp lên chỗ sưng viêm hoặc dùng nước sắc bạch chỉ để rửa.

Bài thuốc kinh nghiệm (Ví dụ)

Tình trạng Bài thuốc
Sốt ở trẻ em Tắm nhanh bằng nước nấu bạch chỉ ở nơi kín gió.
Hôi miệng Nghiền nhỏ bạch chỉ, xuyên khung (1:1), dùng mật ong làm viên, ngậm 2-3 viên/ngày.
Cảm cúm, sốt rét, đau đầu, nhức mỏi Bạch chỉ, xuyên khung (đồng lượng), tán bột, hòa với nước nóng hoặc rượu uống.
Đau nửa đầu Hít bột bạch chỉ, tế tân, thạch cao, nhũ hương (bên mũi đối diện với bên đau đầu).
Mụn nhọt mưng mủ Sắc bạch chỉ, đương quy, tạo giác (7g mỗi vị).
Viêm tuyến vú Sắc bạch chỉ (6g), triết bối mẫu (6g), đương quy (9g), nhũ hương (4.5g).
Đau răng, sưng lợi Chấm bột bạch chỉ xay mịn vào chỗ đau.
Đau bụng kinh Sắc bạch chỉ (10g), hương phụ (10g), quảng móc hương (10g), cửu hương trùng (10g), uống 2-3 ngày trước kỳ kinh, uống trong 4 ngày liên tiếp.

Lưu ý

  • Không dùng cho người âm hư hỏa vượng, nhiệt thịnh.
  • Nam bạch chỉ (Millettia pulchra Kurz) là loài khác với bạch chỉ hàng châu. Nam bạch chỉ là cây thân gỗ, dùng trong một số bài thuốc trị đau bụng, tiêu chảy.